Danh Nhân Việt Nam - Lê Văn Thịnh

Tượng Thái sư Lê Văn Thịnh trong đền thờ tại thôn xã Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc. Bài vị phía sau ghi: Lê Thái sư Đại vương

Lê Văn Thịnh (chữ Hán: 黎文盛, 1038?-?) người làng Đông Cửu, quê xã Chi Nhị, tổng Đại Lai, huyện Yên Định, lộ Bắc Giang, ngày nay là thôn Bảo Tháp, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ thủ khoa năm 1075 kỳ thi Minh kinh bác học thời Lý Nhân Tông - tức là thủ khoa về khoa cử đầu tiên của Việt Nam. Là người có tài năng, lại có công lao lớn nên làm quan tới chức Thái sư, nhưng năm 1096, ông bị ghép vào tội mưu phản giết vua, nên đã bị đi đầy. Hiện vẫn chưa xác định được ngày, tháng, năm sinh và mất của ông.


Lịch sử

Thuở nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng, tự học hàng ngàn quyển sách về Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Hàng đêm, ngồi trong mùng chong đèn đọc sách đúng hai canh đến ba canh mới đi ngủ .

Năm Canh Tuất 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu ở ngay kinh thành Thăng Long. Nho học bắt đầu có địa vị trên vũ đài chính trị và tư tưởng của nước Đại Việt kể từ đó. Đến năm Ất Mão 1075 niên hiệu Thái Ninh, vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) cho mở khoa thi Nho học đầu tiên gọi là Minh Kinh Bác Học (Tam Trường).Thời này , mãi đến 1247 mới có đặt Trạng Nguyên, Bãng Nhãn và Thám Hoa. Lê Văn Thịnh đã đỗ thủ khoa trong số 10 người được chọn và được mệnh danh là :"Ông Trạng Khai Khoa".Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa xuân, tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học. Đỗ đại khoa xong là có chiếu chỉ triều đình mời ông ra làm quan ngay; ông được vào cung dạy Lý Nhân Tông (mới 9 tuổi, lên ngôi năm Nhâm Tí 1072 lúc 6 tuổi)

Năm 1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam (tên lộ của nhà Tống, sau chia làm Quảng Nam Đông lộ, tức tỉnh Quảng Đông và Quảng Nam Tây lộ, tức khu tự trị Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc) là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt để trả thù việc Lý Thường Kiệt và Tông Đản đã đem quân tấn công các châu Ung, Khâm, Liêm của nhà Tống năm trước để phủ đầu mưu đồ xâm lược của nhà Tống. Trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đem quân đánh tan được. Quách Quỳ lui quân, nhưng lại chiếm lấy châu Quảng Nguyên (các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn ngày nay).

Năm 1078: mùa xuân, tháng giêng, vua Lý Nhân Tông sai Đào Tống Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt đi. Năm 1079, nhà Tống đem Thuận Châu trả lại (tức là châu Quảng Nguyên, nhà Tống đổi làm Thuận Châu), nhưng chưa trả những đất đai mà thổ dân dâng cho nhà Tống. Tháng 6 năm 1084, khi đó là thị lang bộ Binh, Lê Văn Thịnh đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc cương giới. Tuy binh lực nhà Tống đã bị Lý Thường Kiệt đánh thua tan tác, song vua quan nhà Tống chỉ đồng ý trả lại đất đai do người Tống xâm lược tại nơi biên thùy. Còn các đất đai do thổ dân nộp để thần phục nhà Tống là hai động Vật Dương và Vật Ác, họ không chịu trả lại. Viện lý những đất ấy là của thổ dân "tự ý" đem sát nhập vào nhà Tống chứ không phải là họ chiếm. Lê Văn Thịnh đã trả lời sứ giả Tống là Thành Trạc:


Đất thì có chủ, các viên quan giữ đất ấy đem nộp cho người khác và trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay "tàng trữ" thì luật pháp cũng không cho phép, huống chi nay lại mang đất lấy trộm dâng để làm dơ bẩn sổ sách nhà vua.


Đại diện cho Đại Việt, Lê Văn Thịnh đã trả lời một cách cứng cỏi, đầy đủ lập luận. Đối với luật pháp nước nào cũng vậy, khi nhận một vật gì để canh giữ, nếu đem vật đó bán và hủy bỏ đi, tất nhiên phải có tội. Trong trường hợp này, các thổ dân - chỉ là những người được vua tin dùng, cho cai quản các châu quận ở nơi biên ải xa xôi. Việc tự tiện đem đất đai dâng cho nhà Tống, để xin phần phục, xâm phạm vào lãnh thổ của Đại Việt cũng như việc nhà Tống chiếm giữ đất ấy không thể là hợp pháp, minh bạch.

Luận cứ trên đây cho thấy nền pháp luật thời ấy đã có những bước tiến đáng kể, nên Lê Văn Thịnh đã phân biệt rõ ràng các khái niệm mà ngày nay gọi là khế ước ủy nhiệm, ký thác hay quyền sở hữu.

Nhà Tống cuối cùng phải trả lại 6 huyện 3 động. Người Tống có thơ rằng:
Nhân tham Giao Chỉ tượng
Khướt thất Quảng Nguyên kim
Tạm dịch:
Vì tham voi Giao Chỉ
Bỏ mất vàng Quảng Nguyên

Năm 1085, Lê Văn Thịnh được vua Lý Nhân Tông cho làm Thái sư.

Năm 1096, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, vua Lý Nhân Tông tha tội chết, an trí ở Thao Giang (tên trại thời Lý, thời Trần đổi là lộ, nay là vùng huyện Tam Thanh, Sông Thao, tỉnh Phú Thọ). Theo Việt Nam Sử Lược, thì ông bị đày đến vùng Lương Giang (Thanh Hóa).


Quan điểm
Thời phong kiến
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Bấy giờ[1] vua ra hồ Dâm Đàm (hồ Tây ngày nay), ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang... Trước đấy Lê Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch.

Các sử gia cũng như nhiều nhà văn, nhà viết kịch sau này nhiều người không chịu tìm hiểu kỹ nguyên nhân sâu xa nên ngay như Ngô Sĩ Liên đã từng viết: Kẻ làm tôi, phạm tội giết vua cướp ngôi mà được miễn tội chết, thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin sùng đạo Phật. Cho đến gần đây, như Tào Mạt trong vở chèo bộ ba Bài ca giữ nước, còn xếp Lê Văn Thịnh vào hàng ngũ các nhân vật phản diện.


Một giả thuyết ngày nay

- Năm 1071, nhà Lý đã có đạo luật định rõ khung hình phạt dành cho các tội Thập ác, trong đó có tội mưu phản; như vậy hình phạt đã áp dụng rất không bình thường khi Lê Văn Thịnh được tha tội chết. Cho dù có công lao lớn thế nào mà đã phạm tội giết vua thì không thể thoát khỏi tội chết. Rõ ràng ở đây có một ẩn ý gì đó không bình thường.
- Nếu chỉ là một người không có tài kinh bang - tế thế, lại có nguồn gốc thấp hèn thì khả năng trở thành Thái sư là rất thấp. Chắc chắn ông phải có những việc làm mà vua thấy được tài năng của ông. Cho dù sử sách chỉ nhắc đến sự kiện ngoại giao với nhà Tống, nhưng việc này chưa đủ để có thể phong làm Thái sư, là một trong những chức vụ quan trọng nhất của một đất nước.
- Thời kỳ trước đó nhà Tống có biến pháp, gọi là tân pháp do Vương An Thạch đứng đầu nhằm cải cách các chế độ kinh tế-xã hội, quân sự. Các cải cách này chắc chắn có ảnh hưởng tới Đại Việt, do mọi hình thức của các thể chế Đại Việt thời đó đều mô phỏng theo thể chế của nhà Tống. Cải cách của Vương An Thạch thất bại, phần nhiều là do các quan lại trong triều bị đụng chạm lợi ích thiết thân và Vương An Thạch đã phải hưu trí bắt buộc. Có lẽ Lê Văn Thịnh khi đó là Thái sư cũng đã muốn thực hiện những cải cách này tại Đại Việt và ông đã phải chịu kết cục bi thảm hơn Vương An Thạch.


Dân gian


Con rắn thần bằng đá nguyên
khối tương truyền gắn với huyền tích về
 Lê Văn Thịnh
Trong dân gian, người dân có quan điểm và cách nhìn nhận vấn đề khác nhiều so với các sử gia chính thống. Hàng năm đến ngày sự lệ, cả 5 thôn Đông, Lai, Nghiêm, Miễu và Lai Lẻ trong xã Chi Nhị xưa đều rước Nghè để trình tế. Thành hoàng hay nghè Nhị Chi của làng chính là Thái sư Lê Văn Thịnh.

Tại thôn Bảo Tháp, trong đền thờ Lê Văn Thịnh có một pho tượng kỳ lạ. Những người dân ở đây đã sửng sốt khi tìm thấy một pho tượng bằng đá nguyên khối tạc hình một con rắn lớn (dạng rồng) trong tư thế "miệng cắn thân, chân xé mình" đã chìm sâu trong lòng đất hàng trăm năm nay. Pho tượng toát lên nỗi đau đớn, phẫn uất. Có lẽ nó chính là hiện thân của Lê Văn Thịnh, trạng khai khoa của nền quốc học Việt Nam, đã chịu hàm oan trong vụ án hồ Dâm Đàm từ thời nhà Lý. Người dân đã tạc pho tượng này để thể hiện nỗi oan khuất đó, và niên đại của pho tượng vào khoảng thời nhà Hậu Lê.

Nghè Chi Nhị

Công trình thờ cúng ông được xây dựng vào đầu thế kỷ 19, có quy mô lớn với đủ các hạng mục Tiền tế, Tiền đường và Hậu đường. Các hạng mục trên đều được lát sàn gỗ. Do nằm ở giữa hai con sông, hàng năm đều bị ngập nước, nên trải qua thời gian Nghè đã phải trùng tu sửa chữa nhiều lần và vẫn được nhân dân địa phương bảo vệ chu đáo.

Ngày nay, Nghè Chi Nhị nằm ở trung tâm của thôn Bảo Tháp, mặt trước hướng nam nhìn ra đê Lai, kiến trúc theo kiểu chữ Công, gồm 5 gian Tiền đường và 3 gian 2 trái Hậu đường, kết cấu vì theo kiểu chồng con tam kẻ trường, xà lòng. Nghệ thuật trang trí, điêu khắc ở Nghè thể hiện trên các bộ vì, bức cốn, bẩy hiên. Những người thợ đã chạm nổi hình trang trí theo mẫu thức truyền thống với các hình: Long, ly, quy, phượng, tùng, cúc, trúc, mai rất phong phú, sinh động mang dấu ấn nghệ thuật thời nhà Nguyễn.

Trong Nghè hiện nay còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật phong phú như: 2 ngai thời, tượng Thái sư Lê Văn Thịnh, bộ bát bửu, thần tích, 5 đạo sắc phong, đạo sớm nhất phong năm 1853, đạo muộn nhất năm 1924 và hệ thống bia đá khắc dựng từ thời Nguyễn, đôi câu đối, cuốn thư và nhiều đồ thờ bằng đồng, gỗ, gốm, sứ. Đó là những di sản văn hóa quý của cha ông để lại, góp phần làm tăng thêm giá trị lịch sử và nghệ thuật cho di tích này.

Trong số các địa phương ở Bắc Ninh có thờ Thái sư Lê Văn Thịnh (Thập Đình và Đình Tổ), chỉ có Nghè Chi Nhị bảo quản được tượng Lê Văn Thịnh. Pho tượng được tạc vào thời Nguyễn, đặt trong khám thờ sơn son thếp vàng lộng lẫy ở phần trang trọng nhất nơi Hậu cung của Nghè. Nghệ thuật tạc tượng, điêu khắc gỗ, sơn son thếp vàng rất điêu luyện, lột tả được chân dung thư thái của vị quan Thái sư tài năng, đức độ-người đã có công lao to lớn trong việc rèn dạy đấng quân vương thời niên thiếu, trong mặt trận ngoại giao, kinh bang tế thế với vương triều nhà Tống để đòi lại lãnh thổ thời Lý.

Tượng thái sư Lê Văn Thịnh góp phần quan trọng cùng các di sản văn hóa khác ở Nghè Chi Nhị và các đình, đền ở Bắc Ninh, giới thiệu phong phú hơn về danh nhân khoa bảng này, đặc biệt là đối với Bảo tàng Bắc Ninh. Nghè Chi Nhị đã được UBND tỉnh xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa năm 2004.

Copy và edit lại từ Wiki - Nghĩa

0 bình luận: (+add yours?)

Đăng nhận xét